TỘI ÁC ĐẪM MÁU CỦA GIÁO HỘI PGVNTN ĐỐI VỚI DÂN TỘC VÀ ĐẤT NƯỚC (2/2)

[2/2].- « LỰC LƯỢNG HÒA HỢP-HÒA GIẢI PHẬT GIÁO : NHỮNG TÊN SÁT THỦ.

(tiếp theo kỳ I)

HÀN GIANG TRẦN LỆ TUYỀN

Nhưng những tên sát thủ trong cái gọi là « Lực lượng Hòa hợp-Hòa giải Phật giáo » ; không phải chịu ngưng lại ở cái chết của ông Trần Quốc Dân. Mà ngay trong đêm 29/03/1975, cả lũ chúng đã kéo nhau đi tìm những vị khác mà chúng đã gọi là : « Cần Lao-Quốc Dân Đảng ác ôn », để giết chết trước khi Việt cộng tiếp thu để trả thù, vì các vị này đã phản đối cuộc tấn công Thanh Bồ-Đức Lợi, 24/8/1964 ; và đã tiếp tay với chính quyền để dẹp loạn bàn phật xuống đường, mùa hè 1966. Và bởi chúng muốn chính tay chúng giết và cũng sợ Việt cộng chỉ bỏ tù các vị đó chứ không giết ; vì các vị ấy, người có chức vụ cao nhất là Phường trưởng mà thôi.

Nên biết, từ ngày 20/03/1975, tại Đà Nẵng Phật giáo đã cướp chính quyền của VNCH. Phật giáo Ấn Quang đã tự xưng là « Chính Quyền Hòa Giải Phật Giáo ». lúc bấy giờ họ cũng xưng là Phường trưởng, Xã trưởng… và có « Lực lượng An ninh Phật tử- Lực lượng Vũ trang Chính quyền Hòa giải… ».

Và như LLHHHGPG đã nói : » Phải tận diệt « thành phần ác ôn ». Vì vậy, nên vào đêm 29/03/1975, Lực lượng Vũ trang Chính Quyền Hòa giải Phật giáo đã đến tận nhà của các vị sau đây để bắt họ đem đi xử bắn tại An Hải Bắc, Quận 3, Đà Nẵng, đó là các Ông :

• Hồ Hân, quê Quảng Ngãi, nhà ở An Thị, An Hải Bắc, quận 3 Đà Nẵng, nguyên Trưởng ban Thẩm vấn Ty Cảnh sát Quốc gia thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Năm 1964 đã bị Phật giáo bắt đánh về tội « Dư đảng Cần lao ».

• Nguyễn Phận, nhà ở An Tân, An Hải Bắc, nhân viên ban 2, Chi khu quận 3, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.

• Phạm Lý, quê Tứ Câu, Thanh Thủy, Điện Bàn, Quảng Nam, nhà ở An Cư 3, An Hải Đông, công nhân sở Mỹ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.

• Cùng bị bắn với ba vị kể trên còn có hai vị nữa, tôi nhớ một người tên Mua và một người tôi quên tên ; nhưng tôi biết cả hai người này là đảng viên đảng Công Nông.

• Riêng Ông Bùi Ngọc Cang, Phường trưởng Phường An Hải Bắc, thời Đệ Nhất Cộng Hòa ông là Nhân viên Phòng 2 Thị đoàn Bảo An Đà Nẵng. Năm 1964, bị Phật giáo bắt đánh về tội « Dư đảng Cần Lao ».

• Lúc « Lực lượng Vũ trang Hòa Giải Phật giáo » đến nhà ông Bùi Ngọc Cang, vợ Ông Bùi Ngọc Cang ra mở cửa. Vừa thấy mặt Ông Bùi Ngọc Cang là một tên đã bắn xả vào Ông liền mấy phát. Ông Bùi Ngọc Cang gục chết ngay giữa nhà trước sự kinh hoàng của vợ con, bà Cang ngất xỉu, các con ông thét gào lên kêu cứu. Lực lượng Hòa giải Phật giáo lạnh lùng quay lưng bỏ đi, để còn tìm thêm những « thành phần ác ôn » khác để giết tiếp.

Một trường hợp khác, vào khoảng 10 giờ sáng ngày 29/03/1975, trong cơn chạy loạn khi xe tôi chạy đến ngay ngã ba Huế, bỗng thấy một dòng người chạy theo sau đám « Lực lượng Hòa giải Phật giáo » khi thấy lũ này đang tiến về một căn nhà nằm ở ngay góc ngã ba, phía trái trên con đường từ Đà Nẵng chạy về phía Phước Tường. Có lẽ họ đã biết rằng một khi đám này đến nhà một người nào thì trong căn nhà đó phải có người chết. Thấy đám đông trước cổng căn nhà này, vì kẹt xe và cũng muốn biết chuyện gì, tôi dừng lại. Trước mặt tôi, phía trong cổng là một căn nhà khá khang trang, các cửa đều đóng kín, trong sân có trồng nhiều loại hoa, những chậu cây cảnh đặt phía trước thềm nhà và dọc theo mấy bậc tam cấp.

Khi vào đến trước căn nhà này, đám LLHHHGPG lên tiếng gọi : « Mở cửa, hãy mau mau mở cửa, không mở thì chúng tao sẽ phá cửa! »

Im lặng một lúc sau, tôi cùng đồng bào bỗng thấy cánh cửa bên hông trái của căn nhà xịch mở, hai người đàn ông mặc đồ dân sự, trạc chừng dưới ba mươi tuổi bước ra. Nhưng khi cả hai người này vừa bước xuống hết bậc tam cấp thì không ai biết có bao nhiêu người đã bấm cò ; nhưng mọi người đã nghe nhiều loạt đạn nỗ bắn thẳng vào hai vị này ; cả hai đều gục chết ngay nằm trên vũng máu, dưới chân bậc tam cấp của nhà họ. Trước cảnh đó, đồng bào cũng như tôi đều biết Lực lượng Hòa giải Phật giáo đang say máu người nên phải nhanh chóng rời xa nơi đó. Song trước khi cho xe chạy đi tôi đã hỏi qua đồng bào tại đó, thì được đồng bào cho biết, hai vị đó là hai anh em ruột và đều là cảnh sát.

Cho đến giờ này và mãi mãi tôi không bao giờ quên được căn nhà này ; cũng như hai anh em ruột là cảnh sát . Mặc dù tôi không biết tên, không biết gì về cả hai người này ; nhưng tôi đã nguyện rằng : Không thể để tên họ của những nạn nhân đã chết thảm khốc dưới bàn tay của Phật giáo Ấn Quang đi vào quên lãng : Vì thế, chắc chắn sẽ có một ngày tôi trở lại, để đến căn nhà đó. Nếu gia đình họ không còn ở nơi ấy nữa, tôi vẫn tin rằng tôi sẽ tìm ra thân nhân và tên họ của hai vị này ; nhất định tôi phải tìm ra, để với tất cả tâm thành tôi sẽ đốt nén nhang cắm lên bàn thờ, cắm trước mộ phần của họ, là hai người đã bị giết chết một cách tức tưởi không kịp nói được nữa lời ; Ôi ! Hòa hợp ! Ôi ! Hòa giải ! Ôi ! Phật giáo !!!

Với những cái chết vô cùng thảm thương và oan uổng như đã kể trên. Tôi vẫn hằng tâm nguyện sẽ có một ngày tôi sẽ trở về, để tìm cho ra tất cả tên họ của những nạn nhân đã chết thảm dưới bàn tay của Phật giáo Thống nhất (Ấn Quang) qua những cuộc thảm sát mà tôi đã chứng kiến, có người tôi biết tên, có người tôi đã thấy họ bị giết mà không biết tên vì trong lúc chạy giặc, kể từ năm 1960 cho đến 30/04/1975. Tôi và những thân nhân của họ sẽ nhờ đến ngọn đèn công lý để xét soi. Nhất định chúng tôi phải đòi cho được lẽ công đạo cho những oan hồn uổng tử.

Viết đến đây, lòng tôi bỗng vô cùng đau xót. Tôi muốn nói rằng : Nếu Phật giáo Ấn Quang không giết các vị ấy, thì biết đâu khi việt cộng kiểm soát hết thành phố Đà Nẵng ; vì các vị ấy chỉ là những cựu viên chức nhỏ Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, hoặc những viên chức nhỏ và chỉ là đảng viên của các đảng phái mà thôi ; thì có thể họ sẽ bị vào trại cải tạo, rồi họ ra tù, họ sang Hoa Kỳ. Thà rằng để cho việt cộng giết chết họ trong và ngoài nhà tù. Và đó, là lý do mà giờ đây người dân Đà Nẵng đã không còn nghe theo lời kêu gọi của các « thầy » nữa

Phật giáo Ấn Quang tàn ác- dã man lắm ; vì đã đang tâm giết chết họ, họ đã bỏ lại vợ dại con thơ trong cơn khiếp đảm, kinh hoàng, và vợ con họ đã kéo lê những tháng năm dài trong nỗi đau đớn khốn cùng. Những tang thương ấy cho đến bao giờ mới phai mờ trong ký ức của họ ? ? ? !!!

AI QUYẾT ĐỊNH TRONG VIỆC THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO VÀO NĂM 1981 ?

Như đã nói ở trên, ngay Võ Nguyên Giáp làm tướng việt cộng đến sáu mươi năm, mà bây giờ sắp chết mới được Hà Nội ban phát cho cái « Ấn kiếm ». Còn về Huân chương, Huy chương, và chức tước, thì Võ Nguyên Giáp còn thua xa Thích Đôn Hậu.

Chính vì thế, nên sau ngày 30/04/1975, Thích Đôn Hậu từ miền Bắc, từ bưng biền trở về, Y đã tự xem mình là anh hùng đã từng chinh Trung, chiến Nam. Nay trở về thì nhất định là phải đăng quang lên ngôi cửu ngũ. Tại Đà Nẵng, trong buổi lễ sinh nhật Hồ Chí Minh do Y chủ trì tại « chùa » Pháp Lâm, với những lời ca tụng « công đức » của HCM ; rồi còn bảo : « Phật tử hãy thiết lập bàn thờ để thờ bác Hồ vĩ đại tại nhà ». Với những chiến công to lớn đã được Hà Nội ghi nhận như vậy. Song cộng sản Hà Nội cũng đâu phải là những tay vừa ; Hà Nội đã biết, đã thấy rõ cái cuồng vọng của Phật giáo Ấn Quang, nên Hà Nội đã thì thầm, to nhỏ với Thích Đôn Hậu là : « Ngài hãy tìm mọi cách để thống nhất Phật giáo đi, đảng sẽ đưa ngài lên ngôi lãnh đạo Phật giáo cả nước ». Bởi thế, nên chính Thích Đôn Hậu đã hối thúc Hòa thượng Thích Trí Thủ và đồng môn Ấn Quang phải thống nhất Phật giáo cả nước thành một khối ; bởi Thích Đôn Hậu đinh ninh rằng một khi Đại hội Thống nhất Phật giáo được tổ chức thì cái chức Tăng Thống sẽ về tay Y. Để rồi từ cái chức tăng thống ấy Y sẽ tóm thâu hết « sơn hà xã tắc » trong tay. Nghĩa là Thích Đôn Hậu đã mưu toan sẽ nắm giữ cả giáo quyền lẫn thế quyền.

Ngày nay Thích Đôn Hậu đã chết, thì Hòa thượng Thích Quảng Độ và các đồ đệ lại cũng tiếp tục với giấc mộng tái lập Lý triều với một nước Việt Nam Phật Quốc.

Điều này, để thấy rõ ràng hơn, tôi xin quý vị độc giả hãy đọc lại 1 trong 3 điều trong bản tuyên ngôn của Phật giáo đã đăng trên báo Quê Mẹ số 137-138, năm 1997, trang 89 nguyên văn như sau :

« TUYÊN NGÔN VÀ QUYẾT NGHỊ CỦA ĐẠI HỘI KHOÁNG ĐẠI KỲ I TẠI HOA KỲ- VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO :

Điều 3- Mở cuộc vận động giải thể thế quyền và ảnh hưởng chính trị bè phái manh động làm ung thối nội tâm nền Phật giáo dân tộc, để trang nghiêm đất nước và pháp giới ».
« Giải thể thế quyền » Nghĩa là nước Việt Nam phải chịu sự cai trị bởi GIÁO QUYỀN ; mà chắc chắn là cái « Tuyên ngôn của Đại hội khoáng đại… » này không bao giờ đòi giáo quyền của một tôn giáo nào khác là Giáo Quyền của Phật giáo. Mà có tôn giáo nào đòi cầm quyền đâu ?

Chỉ cần một Điều 3 này thôi, thì dù bất cứ một người nào Ngu như tôi đây cũng hiểu được cái tham vọng hay nói đúng hơn là cái cuồng vọng của Phật giáo rồi ; khỏi cần phải giải thích dài dòng thêm một lời nào nữa cả.

Trở lại với Thích Đôn Hậu ; vì đã không lường được mọi sự nên đến khi đại hội thống nhất Phật giáo Nam-Bắc được khai diễn thì Hòa thượng Thích Đức Nhuận đã được « đại hội bầu » lên ngôi Pháp chủ ; còn Thích Đôn Hậu chỉ được « suy cử » vào Hội đồng Chứng minh và giữ chức Phó Pháp chủ kiêm Giám luật Hội phật giáo Việt Nam ». Kể từ đó Thích Đôn Hậu ngày đêm vẫn cứ suy tính để làm cách nào giành lại quyền hành ; nên ta thấy khi Hà Nội cử đi đến nước nào Thích Đôn Hậu cũng đều đi cả, vì vừa đi vừa toan tính ; nhưng tính đến chết Thích Đôn Hậu cũng chỉ là Phó Pháp chủ kiêm giám luật Hội Phật giáo Việt Nam mà thôi. Cả nước ai cũng biết Thích Đôn Hậu chưa hề làm Tăng thống một phút giây nào cả.

Còn một điều nữa, tôi muốn hỏi nhỏ ông Võ Văn Ái . Ông còn nhớ hay đã quên hồi còn mồ ma cái chức « Phó chủ tịch Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền » ông còn đến được với Cơ quan Quốc Tế Nhân Quyền ; để chỉ đánh bóng tên tuổi của mấy ông sư cộng sản, và đã có lần ông nhận được cái « Đơn kiện của Đại lão Hòa thượng Thích Quang Thể ; người đứng đầu của tổ chức Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp » gửi sang Paris cho ông ; mục đích là nhờ ông đưa ra Quốc tế nhân Quyền để kiện cộng sản Hà Nội về việc « chính quyền đã chiếm dụng 17 ( mười bảy) ngôi chùa ở Đà Nẵng ». Ông đã vô cùng « hồ hởi-phấn khởi » đưa ngay lên Quốc tế Nhân quyền ; nhưng ông đã không ngờ được là ở ngay Ủy ban Quốc tế Nhân quyền cũng đã có một lá thư của « Đại lão Hòa thượng » Thích Quang Thể. Nội dung thư này « Đại lão HT Thích Quang Thể » đã phủ nhận hoàn toàn rằng không hề viết và không hề biết cái đơn kiện đó…

Còn một điều khác mà xem ra ông Võ Văn Ái khó có thể hiểu được đó là « Thượng tọa » Thích Minh Tuấn, Hiệu trưởng Trường Trung-tiểu học Bồ Đề tại Đà Nẵng, người gốc Huế ; song đã bắt rễ ở Đà Nẵng đã lâu, TT Thích Minh Tuấn từng là người lãnh đạo « Phật giáo Cứu quốc » trong cuộc tấn công đốt nhà, đánh giết đồng bào Thanh Bồ-Đức Lợi, 24/08/1964, và cuộc bạo loạn bàn Phật xuống đường vào mùa hè 1966, Thích Minh Tuấn cũng đã lãnh đạo « Đoàn Thanh niên Phật tử Quyết tử » đã đánh và bắn chết em Lê Quang San ngay phía trong cổng chùa Pháp lâm. Rồi đến 29/03/1975, Thích Minh Tuấn đã công khai đem cả đoàn xe ra tận núi rừng để rước bộ đội Bắc Việt vào ĐN ; sau đó đã « Nhân danh là Hiệu trưởng Trường Bồ Đề xin dâng hiến tất cả Trung-tiểu học Bồ Đề cho cách mạng ». Thích Minh Tuấn đã làm phó đại diện đứng sau Thượng tọa Thích Quang Thể Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Quảng nam- Đà Nẵng suốt mấy chục năm qua. Ấy vậy mà bỗng dưng bây giờ « Thượng tọa » Thích Minh Tuấn lại giao chức Phó đại diện lại cho « Hòa thượng » Thích Giác Viên để cùng làm công việc « Phật sự » bên « Đại lão Hòa thượng » Thích Quang Thể, Chánh Đại diện cho đến ngày … sàng tịch. Còn « Thượng tọa » Thích Minh Tuấn đã hô … biến một cái là đã vào ngay Tu viện Nguyên Thiều, Quảng Ngãi, và hiện đương làm « Thị giả của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN » . Với chức năng « Thị giả » Thích Minh Tuấn luôn luôn thường trực bên cạnh Đệ tứ Tăng thống không rời một bước ; chẳng những thế, mà bất cứ ai khi đến Tu viện Nguyên Thiều muốn hỏi điều gì về Tăng thống cũng phải qua sự đồng ý của « Thị giả » Thích Minh Tuấn. Nhưng thường là chỉ được « Thị giả » trả lời và giải quyết mọi việc ; còn về Tăng thống có lần « Thị giả »Thích Minh Tuấn nói : « Giáo chỉ số 9 thì do một người ở Sài Gòn đưa ra, chứ Đức Tăng thống đang bị bệnh nặng không nói năng gì được ». Và người trả lời phỏng vấn nói tiếng pha lẫn vừa Quảng Nam vừa Quảng Ngãi, được cho là của Đức Tăng thống ; song có người lại chưa chịu tin. Như vậy, tôi nghĩ ngay cả « Viện Hóa Đạo II » cũng không biết đường đâu mà mò. Thôi thì đành chờ thời gian sẽ trả lời mọi sự ; hay là ông Võ Văn Ái hãy hô … biến như « thị giả » Thích Minh Tuấn để về tận Tu viện Nguyên Thiều xem hư thực ra sao, khi đó lời nói của « phát ngôn nhân » nghe mới thuyết phục được.

PHẬT GIÁO ẤN QUANG KHÔNG DÁM NHÌN NHẬN SỰ THẬT.

Cho đến giờ này và mãi mãi Ấn Quang vì khư khư ôm cái cuồng vọng tái lập Lý triều, cứ mơ màng về một nước Việt Nam Phật Quốc nên vẫn cứ loay hoay mãi trong cái vòng lẫn quẫn không bao giờ có lối thoát. Hồi còn bé tôi đã nghe Mẹ tôi ru em bằng câu hát như sau :

Con kiến mà leo dây bầu,
Leo lên leo xuống từ đầu chí đuôi.
Leo ngược rồi lại leo xuôi,
Leo lên leo xuống từ đuôi chí đầu.
Con kiến mà leo dây bầu
Leo lên leo xuống từ đầu chí đuôi.
Leo ngược rồi lại leo xuôi,
Leo lên leo xuống từ đuôi chí đầu.
……….
Và cứ vậy, những con kiến này nó cứ leo, leo tới, leo lui, leo lên, leo xuống, leo hoài, leo mãi, leo cho đến chết cũng không chịu tìm cách để thoát khỏi cái dây bầu ; vì thế nó không bao giờ biết cái gì khác ngoài cái dây bầu cả.

Mà kể ra cũng bế tắc ; bởi Phật giáo Thống nhất (Ấn Quang) đều biết Thích Đôn Hậu là một đảng viên cộng sản kỳ cựu và cao cấp thứ thiệt, biết tất cả ; nhưng không có can đảm để nói ra sự thật đó. Phật giáo đều biết tội ác của Thích Đôn Hậu trong cuộc thảm sát Tết Mậu Thân, 1968, tại Huế, biết Y ra chiến khu theo việt công, rồi ra Bắc đã ở bên cạnh Hồ Chí Minh. Nhưng vẫn cứ ca là Thích Đôn Hậu bị việt cộng bắt khiêng đi, bị bắt buộc phải như thế này, như thế nọ bị …bị…và bị… Nhưng trên các báo Quê Mẹ ông Võ Văn Ái luôn luôn viết rằng :

« ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH ĐÔN HẬU VỚI TINH THẦN VÔ ÚY … ».

Đã nói là VÔ ÚY thì sợ cái gì nữa chứ ? ? ?. VÔ ÚY thì việt cộng làm sao bắt buộc Hòa thượng Thích Đôn Hậu làm những điều mình không muốn. Chẳng lẽ những lần lên máy bay công du đến các nước như Nga, Tiệp Khắc, Mông Cổ… việt cộng cũng đã áp giải hay sao ? ? ? Đã VÔ ÚY thì lúc nào cũng sẵn sàng tử đạo, hoặc chết vì lý tưởng. Vô Úy !!! và Vô Úy !!! …Bao nhiêu năm qua rồi, người dân Việt đã chết thảm, đã đau thương, đã khốn khổ dưới bàn tay của Phật giáo ; thì hôm nay những oan hồn của những nạn nhân ấy, cũng như những nạn nhân còn sống với những vết thương không bao giờ lành được. Tất cả đều gọi kêu Phật giáo Ấn Quang hãy chấm dứt ngay những trò ngụy biện ; bởi chỉ có những kẻ cuồng tín, dại khờ mới tin Phật giáo Ấn Quang ; còn người dân Việt bây giờ đa số họ đã sáng suốt lắm.. Song xét cho cùng cũng như những con kiến ấy nó cứ leo …leo hoài… leo mãi…leo cho đến một ngày nó sẽ chết giấc trên cái dây bầu mà thôi. Bởi vậy, dù đã biết Thích Đôn Hậu không hề có làm Tăng thống một giây phút nào hết ; nhưng ngặt nỗi là không có Đệ tam Tăng thống, thì làm sao có Đệ tứ với Đệ ngù… ???!!!

ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỘ : « ẨM THỦY TƯ NGUYÊN ».

Riêng về Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, tôi thấy trên báo Quê Mẹ số 131, tháng 1-2-1995, nơi trang 78, có đăng lời của HT rằng : Lúc bị quản thúc ở Thái Bình Hòa thượng đã viết bằng chữ Tàu lên một tấm bảng gỗ và treo trước cửa trên đó có bốn chữ « Ẩm Thủy Tư Nguyên » Hòa thượng Thích Quảng Độ đã chê một tên một công an dốt khi nóí :

« Hắn viết những chữ gì… vì anh ta không biết chữ Hán vì bốn chữ này rất thông dụng ».

Về điều này ai cũng hiểu, vì công an Việt Nam thì làm sao biết chữ Tàu ; và HT Thích Quảng Độ là người Tàu hay sao mà lại vẽ Bùa chứ không viết chữ Việt ? Mà bốn chữ này mà « rất thông dụng hay sao ? Tôi nghĩ có bao nhiêu người Việt Nam đã đọc được, đã hiểu được bốn chữ Tàu này mà HT gọi là « rất thông dụng ». ??? Bởi vậy, chẳng phải một tên công an kia dốt, mà còn nhiều người cũng dốt nữa. Bởi, bốn chữ đó nó không đơn giản là « Ẩm Thủy Tư Nguyên » đâu ; mà nó còn hàm chứa những điều ẩn ức trong lòng của Hòa thượng :

Ôi ! Uống nước nhớ nguồn, hay Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Ôi ! Sao các người không nhớ những tháng ngày CS và PGVNTN cùng chung lưng đấu cật, kề vai sát cánh để « Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào ». Để rồi bây giờ các người đành đoạn ngồi Ẩm Thủy mà chẳng Tư Nguyên. Hay nói nôm na là sao các người nỡ đoạn đành ngồi Ăn quả mà chẳng nhớ kẻ cùng trồng cây. Và còn nói một cách dễ hiểu hơn là : Tại sao các người không nhớ những tháng năm làm cộng sản với nhau, mà bây giờ các người tự chia chác QUYỀN và LỢI với nhau mà nở tâm đành đoạn chẳng chia cho ta một tí. Nhìn thấy các người ngồi ăn quả với nhau, ta thấy mà ta vừa thèm rõ dãi vừa ấm ức trong lòng. Ôi ! Tiếng kêu than : « Ẩm Thủy Tư Nguyên ! » Sao mà nghe thê thiết đến thế ! Hỡi người ơi! Ta muốn nói :

– Chiến trường ai khóc chia phôi,
– Khải hoàn ai nhắc đến người hôm qua ???!!!

Nhưng khi đặt bút để viết bốn chữ tàu : « Ẩm Thủy Tư Nguyên », thì có lẽ nào Hòa thượng Thích Quảng Độ đã quên rằng cái chức Tăng thống đó nó đã bắt đầu từ Hòa thượng Thích Tịnh Khiết . Những điều này kể ra thì nó quá dài dòng và không cần thiết, bởi chính HT Thích Quảng Độ và Phật giáo ấn Quang đều biết. Ở đây tôi chỉ muốn nói chính HT Thích Quảng độ và Phật giáo Thống Nhất (Ấn Quang) đều là những người đã bội nghĩa vong ân, bởi cứ luôn luôn đòi cái chức Tăng thống, mà đã quên đi Người đã giúp cho ra đời cái chức Tăng thống, đó là Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngược lại, qua những bài viết của Hòa thượng Thích Quảng Độ và các sư thuộc GHPGVNTN (Ấn Quang) và của ông Võ Văn Ái trên các số báo Quê Mẹ tất cả những người này cũng cứ nói rằng « thời Đệ Nhất Cộng Hòa Phật giáo luôn bị đàn áp và kỳ thị … ». Cho đến bây giờ ai đã từng lần dỡ lại những trang sữ cũ, thì đều đã thấy rõ ràng là Hòa thượng Thích Quảng Độ và cả Phật giáo Thống nhất ( Ấn Quang) đã Ẩm Thủy mà không hề có một phút Tư Nguyên. Bởi, cái chức Tăng thống đó nó đã do từ Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà có.

TẠM KẾT

Theo tôi thấy, đã mấy chục năm qua từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, cho đến bây giờ Phật giáo Ấn quang vẫn ca những bài ca Pháp nạn, đàn áp Phật giáo … và đặc biệt cứ đòi thực thi Dân Chủ ; trong khi chính Phật giáoẤn Quang chẳng có dân chủ một tí nào cả.

Trước kia, sống trong thể chế của cả hai Nền Cộng Hòa Việt Nam mặc dù không muốn, nhưng chính quyền vì phải lo đối phó nhiều mặt, nên đã làm ngơ mới có chức Tăng Thống. Nhưng có Tăng Thống rồi mà cũng chưa thỏa mãn, còn gây ra những cuộc bạo loạn, giết hại dân lành, gieo tang thương, máu lữa vì còn muốn cướp chính quyền nữa. Bởi vậy, nên cả hai Nền Cộng Hòa Việt Nam phải sụp đổ. Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Thể chế Cộng Hòa đã mất, Tổng Thống không còn thì đương nhiên Tăng thống và Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng phải cáo chung. Phật giáo Ấn Quang phải nên nhớ kỹ rằng : Đã làm cộng sản, đã biết cộng sản thì cũng phải biết rằng chế độ cộng sản không bao giờ có chức Tăng thống.

Đó là cái Quả mà Phật giáo phải gặt bởi cái Nhân đã cùng cộng sản đánh đổ cả hai nền Công Hòa Việt Nam. Như thế mà Hòa thượng Thích Quảng Độ còn đòi việt cộng « phải phục hoạt cho GHPGVNTH như trước 1975 ». Như vậy, thì tại sao trước 1975, từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa Phật giáo cứ luôn luôn ca bài « Pháp nạn » rồi kêu gọi « đấu tranh để đánh đổ Mỹ-Diệm, Độc tài, gia đình trị ». Sau khi Nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã sụp đổ, thì vẫn tiếp tục kêu gọi đấu tranh mang bàn Phật xuống đường và « Phải đánh đổ Thiệu-Kỳ-Hương, Thiệu-Kỳ phải từ chức, Mỹ phải rút quân …???

Như mọi người đã biết, ròng rã mấy chục năm qua Phật giáo Ấn Quang luôn luôn đòi hỏi thực thi dân chủ, mà không biết rằng muốn như vậy, thì trước hết chính Phật giáo phải dân chủ trước. Nội cái chuyện thanh trừng qua các «Giáo chỉ » cũng đã phơi bày cho mọi người thấy cái độc tài của Phật giáo rồi. Tại sao Phật giáo không nhìn thấy cách bầu Đức Giáo Hoàng của Tòa Thánh. Tòa Thánh có khi phải năm lần bảy lượt mới bầu lên được một Vị Giáo Hoàng. Còn Phật giáo Ấn Quang thì vẫn cứ khư khư là cái « Di Chúc » ; làm như là VUA không bằng.

Theo tôi, chỉ có hai vị : Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Hòa thượng Thích Giác Nhiên mới thực sự là Tăng thống đã được đại hội bầu một cách dân chủ mà thôi.
Tôi vì ngu dốt nên đã nghĩ rằng : Phật giáo Ấn Quang nên bình tâm mà nhìn lại « con đường ai đang đi đó sẽ đưa … sang đâu… ? » Phật giáo Ấn Quang hãy mở mắt ra để nhìn xuống phía dưới con đường chênh vênh mình đang đi là vực thẳm, còn bao quanh là đầy những chông gai và không biết bao nhiêu là hiểm nguy, bất trắc, lại thêm phải lần mò trong bóng tối thâm u. Tại sao đã là Phật tử mà không chịu lắng nghe theo lời của Đức Phật Tổ đã dạy :

« Chúng sanh hãy tự đốt đuốc tìm đường mà đi ».

Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

http://www.dangvannham.com/modules/news/article.php?storyid=301